Luật Nhân Quả là gì?
“Gieo nhân nào gặt quả ấy”, đại ý cốt lõi trong Luật Nhân Quả mà Đức Phật khi tại thế đã từng nói, đây là một quy luật hết sức hiển nhiên chi phối vạn vật, một “thuộc tính” có tính logic chặt chẽ của cái thực tại mà chúng ta là một phần trong đó. Thế nhưng, trong dân gian, Luật Nhân Quả dường như mang một màu sắc có phần nào tâm linh, huyền bí, bởi chúng ta ít nhiều cũng đã từng nghe người ta nói những thứ đại loại như “kiếp trước ở ác nên kiếp này trả nghiệp”, “bây giờ cố gắng sống thiện để tích đức cho con cháu sau này” hay “tích đức cho kiếp sau”. Những điều như vậy, suy cho cùng, cũng chỉ là để răn đe con người sống sao cho phải lẽ, biết trước biết sau mà hành xử cho hợp lý, chứ khó mà khiến con người hiểu ra được rằng, cái cốt lõi quan trọng nhất, chính là cái cách mà họ sống trong hiện tại.
Luật Nhân Quả, [với tôi mà nói] kể cả trong tâm linh/tôn giáo, cũng là một quy luật hết sức logic, vốn là một với nguyên lý về quan hệ nhân quả trong khoa học tự nhiên nếu xét về bản chất. Quy luật này hiện hữu một cách gần gũi và thực tế trong cuộc sống hàng ngày, mỗi chúng ta cần học cách nhận diện nó để có thể hướng bản thân đến một cuộc sống an nhiên hơn.
Thế nào là “nghiệp” và “trả nghiệp”?
Trong cuộc sống, nhiều người thường nhắc đến “nghiệp” với một sắc thái tiêu cực, ví dụ như khi một chuyện xui xẻo xảy đến một ai đó, thì có người sẽ nói đó là “nghiệp”, đôi khi có ý bỡn cợt và đôi khi cũng có ý thật tùy theo tình huống. Tuy nhiên, “nghiệp” đơn giản chỉ là những gì mà chúng ta làm; mỗi một hành động hay một việc mà chúng ta là, đều là “nghiệp”, nên chúng ta không nhất thiết lúc nào cũng phải hiểu chữ “nghiệp” một cách tiêu cực.
“Nghiệp” vốn gắn liền với ý niệm “luân hồi chuyển kiếp” hay “đầu thai” trong giáo lý của các tôn giáo lớn như Ấn Độ giáo, Phật giáo và một số tôn giáo khác. Trong “luân hồi chuyển kiếp”, “nghiệp” cũng để chỉ những hệ quả từ một chuỗi những hành động của con người trong kiếp này và những kiếp trước. Do đó, trong dân gian thường lưu truyền một kiểu quan niệm là kiếp này sướng hay khổ là do kiếp trước sống thiện hay ác. Có một sự thật không hay là, trong nhiều trường hợp, cách suy nghĩ này thường được biểu đạt ra với một chủ ý tiêu cực, mang một thái độ châm chọc, mỉa mai, dè bỉu hay bỡn cợt mà như một nhát dao của sự vô tâm đâm vào tim của người vừa phải hứng chịu một biến cố lớn.
Vậy, vấn đề đặt ra là, nếu kiếp trước ta sống làm nhiều việc ác thì kiếp này sẽ phải gánh chịu hậu quả? Có thể, nhưng những ai cứ chỉ giữ bên mình quan niệm như vậy mà sống rồi áp lên người khác, thì họ sẽ khó mà tiến xa được trong sự trưởng thành nội tại, bởi họ đã bỏ qua điều cốt lõi trong triết lý về “nghiệp” mà Đức Phật đã từng đề cập, đó là việc chúng ta có tồn tại bao nhiêu kiếp đi chăng nữa cũng không quan trọng, cái chính là cuộc đời hiện tại và những gì chúng ta đang có. Điều duy nhất quan trọng mà chúng ta cần bận tâm, đó chính là cái cách mà chúng ta đang sống ở hiện tại, cái đó mới nói lên con người của chúng ta là như thế nào.
Vậy nên, nếu như những khổ nạn mà chúng ta trải qua trong kiếp sống này có là nghiệp báo của kiếp trước đi chăng nữa, thì cũng hãy đừng để tâm mà tập trung vào hiện tại, bởi suy cho cùng, cuộc đời một con người dù là gặp thuận lợi nhiều hơn hay bất trắc nhiều hơn, thì ta cũng cần phải hiểu là mọi thứ trong cuộc sống không xoay quanh chúng ta, ta không phải là cái rốn của vũ trụ, mà ta chỉ là một phần nhỏ nhoi trong đó, vì thế chúng ta cứ hãy sống thật đẹp, đối xử với người khác thật tốt, đừng sợ cho đi và cũng đừng quá bận tâm việc được phúc đáp. Hãy cố gắng sống đúng như câu nói dân gian của ông bà ta, “Đi người ta nhớ, ở người ta thương”, nhưng quan trọng hơn hết, đó là ta chỉ cần để tâm vào việc sống tốt phần mình là được, vì khi đã làm được điều đó, thì đến cuối cùng, chúng ta sẽ không phải nuối tiếc bất cứ gì cả. Còn lại, việc xung quanh ta có những người đối với ta có một thái độ tiêu cực, do ý xấu hoặc mang trong mình những thói hư tật xấu mà không biết ý thức sửa đổi, thì ta vốn chẳng phải bận tâm, bởi cái xấu mà họ làm cũng chính là họ đang tự làm xấu mình, và nếu như có người khác đối xử với họ bằng ác ý cũng giống như họ đã làm với ta, thì mặc dù họ có thể vẫn phản ứng lại, thế nhưng về bản chất họ vốn chẳng có đủ tư cách để nói người khác, vì chính bản thân họ cũng đã không biết nhìn lại chính mình mà sửa đổi.
Vượt lên trên Nhân Quả
Vượt lên Nhân Quả, hay Đứng trên Nhân Quả, thoạt nghe thì sẽ có người không hiểu, cũng có người sẽ hiểu là không còn bị Luật Nhân Quả tác động, chẳng hạn như làm việc trái pháp luật thì sẽ không bị xét xử trước công lý. Thế nhưng, đó chỉ là cái hiểu bồng bột, hấp tấp.
Nói về vấn đề này, trong Phật giáo có đề cập đến ba cái Đức: Vượt qua nhân quả, Làm chủ nhân quả và Chấp nhận nhân quả. Trong đó, cái Đức đầu tiên là có nhân quả đến mà tâm không bận, ví dụ như trường hợp “người khôn không cãi với kẻ u tối”, vì “kẻ u tối” là để chỉ những người ngang ngược, không biết phải trái, chỉ thích cãi cố, cãi cùn, không thích lắng nghe, nên nếu ta hiểu được điều đó, thì ta không tội tình gì phải mất thời gian để đôi co với những người như vậy; tuy nhiên đây chỉ là một ví dụ, sẽ còn nhiều tình huống khác trong cuộc sống ta cần phải học cách ứng xử tương tự thì mới có thể trở nên hoàn thiện. Cái Đức thứ hai có nghĩa là hành động của bản thân, xuất phát từ Tâm, Khẩu, Thân đều có sự thận trọng, cân nhắc để không làm khổ mình khổ người, hoặc ít nhất là hạn chế tối đa tác động xấu mà ta không may gây ra. Cái Đức thứ ba có nghĩa là biết nhẫn nại, chấp nhận và thích ứng theo bất kỳ nhân quả (hoàn cảnh) xảy đến.
Ba Đức trên kể ra cũng như là ba chân của một cái kiềng, tuy ba mà một, việc nói riêng từng cái cốt cũng chỉ để cụ thể hóa, phân tích, giảng giải để hiểu sâu hơn. Tựu trung mà nói, để vượt lên trên nhân quả, cần phải thực hành được cả ba Đức đã nêu, và đứng trên nhân quả không có nghĩa là vượt ra ngoài quy luật, như “ở trên pháp luật”, muốn tùy ý làm gì thì làm mà không sợ nhận lấy hệ quả tương xứng.
Để hiểu rõ hơn, điều cốt lõi trong sự vượt lên trên nhân quả nằm ở việc chúng ta hiểu và hướng thiện một cách chân thành. Mỗi việc tốt mà chúng ta làm đơn giản chỉ là để góp phần giúp đỡ một ai đó hay xây dựng một thứ gì đó tốt đẹp hơn mà không mong cầu gì lại cho chính mình. Chúng ta sống và làm việc thiện không phải vì để tích đức cho kiếp sau, cũng không cần phải là vì để lại đức cho con cháu, mà đơn giản vì chúng ta hiểu đó là một điều hay và nên làm. Để được như vậy, trước tiên, chúng ta cần phải học cách sống có nhận thức, biết nhìn nhận cái gì hay, nên làm mà bản thân chưa biết để học hỏi, tập làm theo, biết bản thân mình khiếm khuyết và chưa được chỗ nào để mà nhẫn nại rèn dũa, khắc phục. Chỉ khi nào làm được như vậy, thì tâm ta mới có thể bộc phát nhiều thiện ý một cách tự nhiên mà không cần phải cố gắng.
Bên cạnh đó, nếu hiểu được rằng, ta không làm việc xấu, không phải vì sợ pháp luật trừng trị hay ác giả ác báo, mà đơn giản vì đó là việc trái với lương tâm và luân thường đạo lý nên ta không làm, thì nhân cách ta sẽ hoàn thiện thêm một bậc.
Tóm lại, hãy học cách sống một cách ý thức để biết tự tu tâm dưỡng tính, chủ động học hỏi điều hay lẽ phải, hành động thiết thực khi cần, tránh làm chuyện phương hại đến người khác, hành xử theo lương tri, chứ không phải vì e sợ. Chỉ khi Nhân Tâm thuận theo Thiên Đạo một cách tự nhiên, thì khi đó mới có thể thấu triệt được thế nào là đứng trên Nhân Quả.
Leave a comment